ASSYRIAN (1800 đến 600 trước CN)

Vua Byron đã bắt đầu bài thơ : “Sự diệt vong của Sennacherib” của ông bằng câu : "Người Assyrian tiến tới như 1 con sói bước xuống khe núi”. Mặc dù tiếng tăm của họ đã được thổi phồng lên rất nhiều qua những lời đề cập trong kinh Cựu Ước và bằng các bức tranh mô tả về những trận đại chiến của họ được tìm thấy trong những di tích, nhưng quả thật , ở thời kì đỉnh cao, đế chế Assyrians giống như 1 con sói trong bầy cừu. Trong 1 thời gian dài, người Assyrian đã vươn lên trở thành 1 sự thách thức đối với tất cả những kẻ thù xung quanh mình và được coi là đội quân hùng mạnh nhất đã từng được biết đến thời bấy giờ. Sự mạnh mẽ và tàn bạo của đế chế Assyrian đã trở thành 1 truyền thuyết. Sự tàn bạo đó là 1 chính sách đầy tính toán, với mục đích làm cho các đế chế khác quy phục và giảm thiểu nguy cơ từ những cuộc nổi dậy của nô lệ.

* ĐỊA ĐIỂM
Vương quốc Assyria nằm ở phía Bắc của vùng Mesopotamia – có nghĩa là “Nằm giữa những con sông” (ngày nay là Iraq), dọc theo con sông Tigris. Nó được dựng lên sau khi đế chế Sumerian ở phía Nam sụp đổ, nhưng nền văn hóa và chính trị trong những năm đầu của người Assyrian đã chịu ảnh hưởng rất lớn từ người Sumerian.


Lãnh thổ của Assyrian vào khoảng 8th century BC

* THỦ ĐÔ
Trong phần lớn thời gian tồn tại, thủ đô của Assyria luôn là Ashur, tuy nhiên, sau đó đã được dời đến nơi khác khi các vị vua xây dựng những cung điện mới. Những thủ đô và các thành phố quan trọng khác của vương quốc Assyria là Nineveh, Arbela, Khorsabad và Nimrud.

* SỰ VƯƠN LÊN TRỞ THÀNH 1 QUYỀN LỰC
Vào những năm 2000 trước CN, vùng Assyria đã bị xâm lược bởi 1 bộ tộc người Semite man rợ có tên là Amorites. Tới năm 1800 trước CN, một vị vua người Amorite của Assyria đã thiết lập quyền lực của mình lên hầu hết miền Bắc của Mesopotamia. Tuy nhiên, sức mạnh của họ ko tồn tại được lâu dài trong giai đoạn này, đầu tiên là do sự lớn mạnh của Babylonia dưới triều đại vua Hammurabi, và sau đó là của người Mitanni ( Syria ngày nay).
Khoảng thời gian từ 1363 tới 1000 BC (Before Christ: trước Công nguyên) là những năm giữa của đế chế Assyrian. Một vài vị vua hùng mạnh đã tuyên bố về sự độc lập chủ quyền của người Assyrian, và sau đó bắt đầu xâm lăng các đế chế láng giềng. Đế chế Assyrian tránh được thảm kịch hủy diệt năm 1200 BC vì họ đã phát triển những chiến thuật quân sự và vũ khí mới mà những đế chế trước đó ko có được. Trong những năm trước thời Trung Cổ, khi mà chính trị hầu như chỉ là con số 0, đế chế Assyrian đã trở nên rất thịnh vượng. Năm 1076 BC, vua Tiglathpileser I đã vươn sang tận Địa Trung Hải ở phía Tây.
Đế chế Assyrian Mới, bắt đầu từ 1000 tới 600 BC, là đỉnh cao trong công cuộc chinh phục. Lãnh thổ của họ trải dài từ đầu vịnh Persian, qua Damascus, Phoenicia, Palestine, bao quanh Fertile Crescent, tới tận Ai Cập cũng như Thebes ở phía Nam. Biên giới phía Tây Bắc là dãy núi Taurus của Thổ Nhĩ Kì ngày nay. Ngoài những nơi mà di tích cho thấy rằng nó đã từng thuộc về Minoan (Create), Mycenean (Greece) và Hittite (Thổ Nhĩ Kì), tất cả lãnh thổ của những nền văn minh phía Tây trước thảm họa 1200 BC đều bị thống trị bởi người Assyrian.

* KINH TẾ
Nền kinh tế của người Assyrian chủ yếu dựa trên nông nghiệp và chăn nuôi, nhưng Assyria cũng được hưởng lợi từ vị trí địa lý chắn ngang những con đường buôn bán quan trọng. Họ ko tham gia trao đổi hàng hóa mà chỉ thu thuế của những người buôn bán qua đó. Trong suốt thời kì của Đế Chế Mới, người Assyrian đã hưởng lợi từ thuế và vật cống nạp mà họ thu được từ lãnh thổ và các nước chư hầu, bao gồm cả Ai Cập trong 1 thời gian.

*TÔN GIÁO VÀ VĂN HÓA
Tôn giáo của người Assyrian chịu ảnh hưởng lớn từ những nền văn minh trước đó ở vùng Mesopotamian, chủ yếu là Sumeria. Vị thần tối cao của người Assyrian là Ashur, vì vậy mà cả nền văn hóa và thủ đô của họ đều được đặt theo tên vị thần này. Những ngôi đền của họ là những thánh đường được xây bằng gạch làm từ bùn, rất giống với những người láng giềng ở phía Nam.
Hoạt động chính của những người giàu có là đi săn trên những cỗ xe ngựa, điều đó rất thích hợp với 1 nền văn hóa hiếu chiến. Trái với sự tàn bạo đáng sợ của mình, người Assyrian đã hướng tới sự văn minh. Họ sử dụng chữ hình nêm và trang trí những thành phố rất khoáng đạt với những hình chạm nổi, tượng đá được sơn màu và tượng điêu khắc.

Resigzed Image Bấm vào đây để xem kích thước đầy đủ


BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN
Vua là người cầm quyền cao nhất của chính phủ, được hỗ trợ bởi thống lĩnh của các vùng. Cung điện là nơi đặt bộ máy chính quyền. Những cố vấn trao đổi về các vấn đề trước khi những quyết định quan trọng được đưa ra.
Lãnh thổ và các thành phố chư hầu bị buộc phải nộp thuế và vật cống nạp dưới những hình thức như: thực phẩm, hàng hóa, vàng, nô lệ, sự tiếp viện quân sự, binh lính cho quân đội. Một mạng lưới rộng lớn đường sá và kho chứa thóc đã được xây dựng trong thời kì của Đế Chế Mới để tiện cho việc liên lạc và di chuyển quân đội tới những vùng có sự cố.

* QUÂN ĐỘI
Những đội quân đầu tiên của người Assyrian là các nông dân cầm giáo. Tuy nhiên, sau một loạt những sự thay đổi về mặt quân sự trong những năm 800 BC, họ đã tạo nên 1 đội quân thường trực, tinh nhuệ ở độ tuổi đi lính. Đội quân này được vũ trang và cung cấp đầy đủ hơn hẳn những đạo quân khác của các nước đối địch, tạo ra những lợi thế quan trọng cho người Assyrian. Đội quân của Đế Chế Mới cũng được hưởng lợi từ việc sử dụng sắt (vốn rất rẻ) để cải tiến gươm và áo giáp.
Người Assyrian là một trong những dân tộc đầu tiên chấp nhận ý tưởng về 1 đội quân tổng hợp vớI bộ binh là nòng cốt trong những cuộc chiến lớn, được hỗ trợ bởi cung thủ hạng nhẹ và một cánh quân di động bao gồm xe ngựa, lạc đà và kị binh. Đội quân này có thể chiến đấu ở đồng bằng, nơi xe ngựa và kị binh trở nên rất nguy hiểm, cũng như trên những địa hình gồ ghề, khi mà ngựa và xe kéo ít có tác dụng hơn. Họ thường xuyên mở những chiến dịch chinh phục về phía Bắc và phía Đông, đẩy lui những bộ lạc man rợ vốn luôn là một nỗi đe dọa. Tinh hoa của quân đội Assyria trong suốt nhiều năm là những cỗ xe ngựa, sau đó là kị binh khi mà xe ngựa ko còn nhiều tác dụng.
Khả năng chinh phục những thành trì kiên cố của người Assyrian đã đạt đến mức nghệ thuật. Trong những ghi chép của người Assyrian có kể chi tiết về rất nhiều cuộc tấn công các thành phố và sự đối xử tàn bạo sau khi đã chinh phục được. Những thành phố ko chịu đầu hàng thường bị hủy diệt hoàn toàn. Dân cư của những thành phố đó sẽ bị giết hoặc đưa đến những vùng khác làm nô lệ.



Shang

Shang hay theo cách gọi của người Việt ta là triều đại nhà Thương , triều đại này tồn tại từ năm 1600 BC đến 1027 BC (thời kỳ này Việt NAm ta chỉ là tập hợp các bộ lạc ). Nó là triều đại nối tiếp của nhà Hạ và tồn tại từ đời vua Thang đến đời vua Trụ (ông vua này nổi tiếng trong cái tác phẩm Phong Thần ) . Trong thời kỳ của mình nhà Thương đã thống nhất khu vực đồng bằng phía bắc Trung Quốc và cũng như các quốc gia khác trong cùng thời kỳ của mình , họ cũng bắt nô lệ và bắt các vùng đất bị họ đánh bại phải thần phục và phải hàng năm cống nộp .
Về mặt bonus trong đế chế thì do dân Tung Của quá đông nên các nhà sản xuất cho dân rẻ rề . Lãnh địa của họ có cả sa mạc và đồng bằng nên có lạc đà , ngựa chém và charrios , tường thành gấp đôi mắu là do họ có quả Vạn lý trườn thành quá ngon ( mặc dù thời này vẫn chưa xây ) . Họ không có voi vì TQ ko có voi và căn bản là thời này Vn ta chưa bị bọn khốn này chiếm .
Minoan


Minoan là 1 vương quốc trên đảo Crete thuộc Địa Trung Hải , đế chế này tồn tại từ năm 2700 BC đến 1405 BC thì nền văn minh của họ bị thay thế bởi nền văn minh Mycenaean - một thành bang của Hy lạp . Do là 1 đảo quốc nên họ sinh sống bằng nghề chài lưới là chính , do vậy nên họ có 1 lực lượng thuỷ quân rất mạnh và lực lượng này cũng thường xuyên dc thuê để đánh bọn cướp biển hoành hành dữ dội trên Địa Trung Hải . Do họ ở 1 vị trí quan trọng trên con đường buôn bán trên biển nên việc bảo vệ chính mình trước các quốc gia khác là điều thực tế và các cung thủ của Minoan đã làm rất tốt việc này .
Trong AOE , trước thành tích quá tốt của cung thủ Minoan nên cung A dc cộng 2 ranger và thuỷ quân Minoan là 1 trong những lực lượng thuỷ quân hùng mạnh nhất .

Palmyran

Là 1 đất nước nằm ở 1 ốc đảo tồn tại giữa đế chế Roman ở phía tây và nước Parthian ở phía đông . Đất nước này nằm trên con đường buôn bán Đông -Tây nên đã thiết lập các đội bảo vệ trên sa mạc để bảo vệ con đường buôn bán giữa Damascus và sông Euphrates . Họ đã trở nên giàu có nhờ công việc này .Khoảng năm 17 BC , Palmyran trở thành 1 phần của đế chế Roman khi được phép giữ lại nền độc lập và đội quân sa mạc của mình . Đến năm 179 thì PAlmyran trở thành 1 thành phố trong tình trạng tự do ( nghĩa là ko đánh thuế ) và là 1 thuộc địa của Roman.
NĂm 260, quân Palmyran đã đánh bại đế chế Persia và bắt sống được vua Valerian của ROman ,họ lập 1 quý tộc người Palmyran là Dux Orientis lên thay thế và rất được người Roman ủng hộ . SAu đó họ chiếm giữ Ai cập và đẩy người GOths ra khỏi Asia Minor(cái này em chịu , chả dịch dc ) . Lúc này lãnh thổ Palmyran trải dài từ Asia Minor đến Ai Cập . Tuy nhiên người Roman cũng không thể quên được cuộc nổi dậy của người Palmyran và sự mất đi viện trợ lương thực từ Ai Cập , 1 đạo quân đã bị tiêu diệt ở AI Cập , tuy nhiên Aurelius đã tiêu diệt quân Palmyran 2 lần ở Antioch và Emesa . Quân Palmyran đã bị bao vây và đầu hàng . Người Palmyran nổi dậy 1 lần nữa và tàn sát các đơn vị đồn trú của người Roman . Các đội Legion của Roman quay trở lại 1 cách nhanh chóng và cướp phá thành phố .
Với 1 đạo quân sa mạc hùng mạnh nên lạc đà Palmyran chạy nhanh 25% . Là 1 quốc gia giàu có ở giữa sa mạc , bị biến thành 1 thành phố tự do nên dân Palmyran có khả năng làm rất nhanh và chuyển tiền không tính thuế .
Assyria

Assyria là vùng đất có lịch sử xa xưa ở phía thượng nguồn sông Tigris, tên gọi lúc đầu của thủ đô chính là thành phố cổ Assur. Về sau, giống như vương quốc, đế chế tiến lên khai phá một phần phía Bắc Lưỡng Hà (một phần phía Nam Babylonia. Thủ đô là Nineveh.

Thực chất Assyria là một vùng nhiều đồi núi, trải dài theo sông Tigris cho đến tận cao nguyên Gordiaean hoặc ngọn núi Carduchian của Armenia, có một thời được gọi là "Vùng núi của Ashur".

Các vị vua của Assyria cai trị một vương quốc rộng lớn trong ba giai đoạn lịch sử, được gọi theo cổ xưa, giữa và vương quốc Assyria mới (Neo-Assyrian). Nhưng phát triển rực rỡ nhất của Assyria chính là thời kỳ Tân Assyria, niên đại: 911 - 12 TCN.

DO người Assyria là dân tộc đầu tiên sử dụng bánh xe nên dân Assyria có khả năng chạy nhanh 30%.
Phoenicia

Phoenicia là một nền văn minh ở phía Bắc của Canaan cổ xưa, với trung tâm kéo dài suốt bờ biển của Liban và Syria ngày nay. Văn minh Phoenicia có một nền kinh tế buôn bán hàng hải dọc bờ biển Địa Trung Hải phát triển sớm từ thiên niên kỷ thứ 3 trước Công Nguyên. Người Phoenicia có một nền nông nghiệp sớm như đánh bắt cá, chăn nuôi, các loại cây trồng: ôliu, nho và lúa mì. Người Phoenicia rất gan dạ và can đảm, họ giỏi trong nghề hàng hải và buôn bán.

Dải đất Phoenicia nằm giữa các nền văn minh: Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy Lạp nên có rất nhiều điều kiện thông thương và phát triển. Họ làm chủ con đường buôn bán từ Đông sang Tây từ đầu thiên niên kỷ thứ 1 trước Công Nguyên cho đến thế kỷ thứ 6 TCN.

Người Phoenicia là những nhà hàng hải giỏi nên thuỷ quân của họ rất mạnh với Cat Trireme và Juggernaught bắn nhanh 65% . Người Phoenicia chặt gỗ nhanh do càn gỗ để duy trì lwcj lượng thuyền của mình . HỌ cũng là những nhà buôn voi nên voi của họ rẻ 25%



BABYLON

Cuối thiên niên kỷ thứ III trước Công Nguyên, lợi dụng sự suy sụp của Lưỡng Hà, hai tộc người Elam và người Amorites xâm lược tàn phá và cướp bóc. Người Amorites xây dựng hai quốc gia về phía Nam của Lưỡng Hà là Ixine và Laxa; ở phía Bắc của Lưỡng Hà cũng hình thành các quốc gia Esnunna và Marie. Đến lượt các quốc gia trên tranh dành và gây chiến với nhau liên miên, gây nên cảnh đổ nát hoang tàn.

Vào khoảng đầu thế kỷ XIX trước Công Nguyên, người Amorites thống nhất Bắc Lưỡng Hà và hình thành quốc gia cổ Babylon (khác với Tân Babylon sau này) và họ đã thống nhất được khu vực Lưỡng Hà. Quốc gia Babylon cổ nằm trên đường giao lưu quan trọng nối châu Á rộng lớn sang Địa Trung Hải, châu Phi và châu Âu.

Sự cường thịnh và hùng mạnh đạt đến cao điểm vào thời kỳ 1792-1750 trước Công Nguyên, dưới triều đại vua Hammourabi. Nhà nước cổ Babylon thống nhất trên một diện tích lãnh thổ toàn bộ Lưỡng Hà và bị suy sụp vào khoảng cuối thiên niên kỷ thứ II trước Công Nguyên bởi người Catsites nổi dậy và làm chủ hầu hết lãnh thổ của Babylon.

Đến năm 627 BC người Babylon đã gây dựng lại dc đất nước của mình và phục hồi lại vương quốc của mình vào năm 612 BC .
Thời kỳ Tân Babylonia có những thành tựu nổi bật cùng với thành tích của Nabopolassar, ông đã tích cực tái thiết lại Babylon do bị tàn phá bởi các thời kỳ dưới sự cai trị trước đó của người Assyria. Mục đích của Nabopolassar là xây dựng thủ đô của đế chế mới trở nên lộng lẫy hơn và tham vọng để trở thành kỳ quan trên thế giới. Các đền đài cũ được xây dựng lại, các cung điện với vẻ tráng lệ, nguy nga kinh ngạc đượng xây dựng lên dưới thời ông cùng với rất nhiều đền thờ các vị thần của Babylon được dựng lên (theo sử Hy Lạp viết bởi Diodorus của Sicilia và Herodotus). Cung điện của Nabopolassar được xây dựng bởi các chất liệu cực kỳ quý hiếm và rộng lớn. Bên cạnh thành phố có những công trình lộng lẫy như Vườn treo Babylonia và Tháp Babel huyền thoại với đường kính chân tháp đến 91 mét.Năm 539 TCN Tân Babylonia bị Đế quốc Ba Tư xâm lược và nền văn minh Babylonia sụp đổ.


DO họ xây được tháp BaBel và vườn treo Babylon - 1 trong 7 kỳ quan nên các nhà SX đã cho Babylone có khả năng làm đá nhanh hơn
.
___________Auto Merge________________

.
tiếp này:
Egypt
Ai Cập là đế chế xuất hiện đầu tiên và có 1 thời kỳ tồn tại dài nhất , kéo dài từ năm 5000 đến năm 30 trước công nguyên khi bị người La MÃ đánh bại và thống trị . Nói đến AI Cập là nói đến các Kim Tự Tháp với các xác ướp nổi tiếng . Trong suốt thời kỳ của phát triển của mình Ai Cập cổ đã rời đô nhiều lần ở Hierakonpolis, Memphis, Herakleopolis, Thebes, It-towy, Akhetaten, Tanis, Sais và Alexandria.Trong đó 2 nơi quan trọng nhất là Memphis và Thebes.Alexandria được xây dựng như là thủ đô của ALexander đại đế vào năm 331 trước công nguyên và triều đại Ptolemaic đã thống trị ở đây cho đến năm 30 trước công nguyên.
Về mặt quân đội , Ai Cập đã xây dựng được một đạo quân chuyên nghiệp , quân đội Ai Cập sử dụng giáo , cung và chuỳ để chiến đấu. Với việc phát minh ra CHarios , quân Ai Cập đã có 1 sức mạnh vượt trội so với các quốc gia khác . CHarios có thể mang 1 người lái và 1 cung thủ , đây được coi như là lực lượng chủ lực của AI Cập cổ .

Trong AOE , với việc phát minh ra Charios các nhà sản xuất đã cho AI Cập 1 lực lượng Charios mạnh nhất với 133% máu . DO AI Cập sở hữu 1 số lượng lớn các mỏ vàng và việc tìm thấy rất nhiều vàng trong các kim tự tháp nên AI Cập có khả năng kiếm vàng nhanh 30%
Choson
CHoson là 1 quốc gia thành lập từ liên minh các bộ lạc trên bán đảo Triều Tiên . Nền văn minh này tồn tại từ năm 450 đến 108 trước công nguyên khi bị nhà Hán bên Trung Quốc đánh bại .Nhà nước Choson được xác định tại thung lũng giữa Liao ( cái này em cũng không rõ lắm , hình như là nước Liêu ) và sông Taedong , vùng đất này ở phía tây nam thuộc 1 phần của Bắc Triều Tiên hiện nay. Thủ đô là Wanggom-song , nơi mà hiện nay là Bình Nhưỡng -thủ đô của Bắc Triều Tiên.
Về quân đội , CHoson loại ra chỗ đứng của quân đội và không tách rời khỏi nông dân .CHỉ những chiến binh giàu có mới có thể trang bị cho mình ngựa do vậy kỵ binh không phát triển . Kiếm sắt đã được người CHoson trang bị cho quân đội trong thời kỳ này .

Triều Tiên được coi như là 1 đân tộc mũ trắng , ngoại trừ tụi Thanh Long , Bạch Mã , Mãnh Hổ thời chiến tranh Việt Nam thì Triều Tiên chưa từng đem quân ra nước ngoài 1 lần nào ( hehe , vì bên cạnh nó là 2 thằng khoẻ như choá là Tung Của và NHật chứ em đeck tin nó nhân đạo) . Với các đạo bộ binh trang bị kiếm sắt ,các nhà SX đã cho Legion của Choson 240 máu .
Persia


Hay là Ba Tư trong tiếng Việt ,theo sử cũ ghi chép thì Ba Tư bắt đầu từ khoảng năm 3200 TCN ở nền văn minh Tiền-Elamite và tiếp tục với sự xuất hiện của người Aryan và sự thành lập Triều đại Medes, tiếp đó là Đế chế Achaemenid năm 546 TCN, đến năm 331 TCN thì bị Alexander đại đế chinh phục. Về mặt quân đội , những người dân Ba Tư dưới 50 tuổi đều bị ép vào quân đội cho nên Ba Tư có 1 lực lượng quân đội đông đảo trong đó tinh nhuệ nhất là đội cận vệ hoàng gia với 10000 người .

Voi được Persia sử dụng là 1 đơn vị hỗ trợ chiến trường cho kỵ binh - lực lượng chủ lựccủa Persia .Do vậy voi chiến được tuyển chọn thường là những chú voi nhỏ nhưng nhanh nhẹn . Thuỷ quân Persia là 1 lực lượng thuỷ quân chiến nhất thời cổ đại nên các nhà SX đã cho thuyền cung của Persia bắn nhanh




HITTITE:

Hittite là một tộc người sử dụng ngôn ngữ Ấn - Âu cổ, đã thiết lập được vương quốc của mình và đặt thủ đô tại Hattusa - phía bắc Anatolia từ thế kỷ 18 TCN. Vào thế kỷ 14 TCN, đế chế Hittite đạt tới đỉnh cao của mình, chiếm cả Anatolia, bắc Syria, phía trên của Mesopotamia. Sau năm 1180 TCN, đế chế này phân tán thành vài thành phố (bang) độc lập là các "Neo-Hittite" (Người Hittite mới), một số trong đó tồn tại cho đến thế kỷ thứ 8 TCN.

Thuật ngữ "Hittite" được dịch theo kinh thánh của người Do Thái. Nhiều khả năng người Hittite có nguồn gốc từ người Hattian (Vương quốc Hattic) - một giống người đã sớm có mặt tại cùng lãnh địa của người Hittite sau này - từ tận thiên niên kỷ thứ 2 TCN nhưng không nói thứ tiếng Ấn - Âu (Indo - European). Lãnh thổ của Hittite hiện thuộc đất nước Thổ Nhĩ Kỳ, hiện còn rất nhiều những thành phố của nước Thổ có tên xuất phát từ những cái tên cổ của người Hittite, như là Sinop hay Adana. Điều đó đã cho thấy ảnh hưởng của văn hóa Hittite cổ xưa tới Anatolia như thế nào.

Người Hittite còn rất nổi tiếng với kỹ năng xây nhà và sử dụng Chariot. Hittite chính là những người tiên phong trong việc sử dụng đồ sắt (Iron Age), những vũ khí bằng sắt đã được họ chế ra từ thế kỷ 14 TCN. Công nghệ của người Hittite đã vượt xa các
đế chế cùng thời khi đó.
--> Điều này lí giải tại sao trong AOE, cung Hittite +1 damage (nước đầu tiên sử dụng vũ khí bằng sắt) và pháo x2 hp (Đồ sắt vững chắc hơn)

CHỮ VIẾT:

Chữ viết của người Hittite là những ký tự hình nêm. Những nhà khảo cổ đã tìm thấy rất nhiều những bản khắc bằng kí tự hình nêm tại Hattushash, ngòai ra chúng được viết cả bằng ngôn ngữ Babylonian. Từ chữ viết và những tài liệu khảo cổ học tìm được, người chứng minh được rằng Hittite có quan hệ mua bán với nhiều chế chế khác trong đó có Assyrian và nhiều nước lân cận vùng trung đông khác.

LỊCH SỬ:

Lịch sử của người Hittite thường được chia làm 3 thời kỳ: Người Hittite cổ xưa (1750-1500 TCN) Người Hittite trung đại (1500-1430 TCN) và người Hittite mới (1430-1180 TCN)

Hoàng đế cổ xưa nhất còn được biết đến của người Hittite là Pithana là người gốc Kussara vào thế kỷ 18 TCN sau khi chinh phục được Nesa - nơi đây đã trở thành thủ đô của người Hittite trong khoảng một thế kỷ cho tới khi Labarna II chiếm được Hattusa và đặt thủ đô của mình tại đây.

Trong suốt thế kỷ 15 TCN, đế chế Hittite bị suy yếu một cách khó hiểu. Đến năm 1400 TCN, dưới thời của Suppiluliuma I và Mursili II, Hittite trở lại thành quyền lực lớn nhất tại Anatolia, một phần Syria và Canaan. Đến năm 1300 TCN, Hittite bắt đầu gây ảnh hưởng của mình tới Ai Cập (Egyptian) dẫn tới cuộc chiến tại Kadesh năm 1274 TCN. Những cuộc chiến triền miên khiến cho đế chế Hittite dần suy yếu và sụp đổ vào năm 1160 TCN.


CHÍNH PHỦ:

Hittitte được coi là một trong những nhà nước quân chủ lập hiến đầu tiên. Chính phủ bao gồm có Đức Vua, Hoàng Gia, và hệ thống kiểu như nghị viện hay quốc hội bây giờ gọi là các Panku để kiểm tra giám sát mọi hoạt động của Vua. Có thể nói chính phủ của Hittite đã đạt một bước tiến lớn đối với việc lập pháp, hành pháp cũng như công bằng xã hội. Họ tạo ra bộ luật dành cho Hatti trong đó chú ý là rất hiếm khi dùng tới tử hình như là một sự trừng phạt. Ví dụ như hình phạt đối với kẻ cắp chỉ là phải hoàn trả những gì lấy đi..., đó là một bước tiến quan trọng tới những luật lệ hiện đại sau này.